Đái tháo đường là căn bệnh kinh niên và khó chữa trị, thậm chí bệnh này còn có rất nhiều biến chứng nguy hại cho người bệnh. Do đó, nhiều người không hiểu đầy đủ những thông tin cần thiết về căn bệnh này. Sau đây, Aquafina Pure Fashion xin cung cấp thông tin mang tính khá toàn bộ và hữu ích cho bạn đọc về căn bệnh đái tháo đường như: Đái tháo đường là gì? Dấu hiệu bệnh như thế nào? Có phương pháp nào để điều trị bệnh triệt để hay không?
Định nghĩa cơ bản về đái tháo đường
Căn bệnh đái tháo đường (hay còn gọi là bệnh tiểu đường) là một loại bệnh hầu như khó có khả năng chữa khỏi hoàn toàn mà bệnh này sẽ đeo đuổi bệnh nhân lâu dài. Bệnh có biểu hiện rõ ràng nhất là lượng đường trong máu của bệnh nhân luôn trong tình trạng cao hơn mức bình thường do cơ thể họ có sự bài trừ cao với insulin hoặc thiếu hụt chất này, kết quả là sự chuyển hóa đường trong máu bị rối loạn.
Khi một ai đó mắc chứng tiểu đường, cơ thể họ sẽ khó mà thực hiện được quá trình chuyển đổi chất đường bột từ thức ăn mà bạn nạp vào cơ thể hàng ngày một cách hoàn hảo để sản sinh ra năng lượng cho cơ thể. Do đó lượng đường mà người bệnh nạp sẽ tích tụ dần dần trong máu, cho đến khi lượng đường đó vượt quá ngưỡng cho phép của cơ thể thì bệnh nhân sẽ có nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch hay những cơ quan khác trong cơ thể như mắt, thận, thần kinh,… bị tổn thương hoặc những bệnh lý nghiêm trọng khác. Vì lượng đường tích tụ nhiều nhưng không được chuyển đổi thành năng lượng nên cơ thể sẽ đào thải bớt đường ra ngoài qua hệ bài tiết và gây nên đái tháo đường.
Nguyên nhân gây ra đái tháo đường
Trong cơ thể, tuyến tụy là cơ quan có nhiệm vụ sản sinh ra hormone insulin, một hợp chất giúp kiểm soát nồng độ đường glucose trong máu để cung cấp cho cơ thể năng lượng hoạt động hàng ngày. Do đó, khi cơ thể thiếu đi một lượng insulin cần thiết hay insulin không thực hiện đúng chức năng của nó là chuyển đổi đường, đường sẽ tồn lại và tích tụ dần qua thời gian và mức độ đường huyết sẽ tăng lên.
Nguồn gốc của căn bệnh tiểu đường này vẫn chưa được khoa học chỉ ra cụ thể nhưng có nhiều yếu tố cũng góp phần gây nên chứng tiểu đường tuýp 1, đó là di truyền học; chế độ dinh dưỡng không cân đối: nạp vào nhiều thịt đỏ, chất béo và đường bột nhiều; thừa cân, béo phì; bữa sáng thường bị bỏ qua; nhịp độ sinh học nghỉ ngơi thiếu khoa học: lịch làm việc không thống nhất mà thường xuyên thay đổi, ngủ không đủ giấc; người bị ngủ ngáy; người có buồng trứng đa nang; người lười vận động và không có hoạt động thể chất. Đặc biệt, ở những người thừa cân, béo phì thường có nguy cơ mắc đái tháo đường tuýp 2 cao hơn những đối tượng khác.
Phân loại đái tháo đường
Thông qua xét nghiệm, căn bệnh đái tháo đường được chia ra các loại như sau:
Tiền đái tháo đường
Đây là giai đoạn mức đường huyết trong cơ thể người bệnh chỉ cao hơn mức bình thường một chút và chưa đạt tới mức để được bác sĩ chẩn đoán là mắc chứng đái tháo đường. Loại đái tháo đường này khiến người mắc có nguy cơ cao trong việc mắc đái tháo đường tuýp 2 và bệnh liên quan đến tim mạch và thậm chí là đột quỵ. Tuy nhiên người bệnh đang ở trong giai đoạn này và được phát hiện sớm thì sẽ có khả năng chữa khỏi mà không cần áp dụng phương pháp bổ sung insulin hay thuốc để chữa trị. Bệnh nhân mắc chứng tiền đái tháo đường thường được chỉ định chữa bằng cách giảm cân từ từ và tăng cường tham gia các hoạt động thể chất. Phương pháp trị liệu tiền đái tháo đường bằng giảm cân sẽ có tác dụng từ từ và bệnh nhân phải kiên trì thực hiện thì mới thấy được hiệu quả của nó. Vì đái tháo đường là bệnh hầu như không có khả năng chữa khỏi hoàn toàn nên phương pháp này phần nhiều sẽ giúp người bệnh có thể phòng tránh hay ít nhiều cũng làm chậm lại quá trình hình thành đái tháo đường tuýp 2.
Đái tháo đường tuýp 1
Với những đối tượng được chẩn đoán là thuộc loại đái tháo đường tuýp 1, cơ thể họ sẽ ngừng sản sinh ra hoạt chất insulin hay lượng chất này được tạo ra không đủ để điều hòa lượng glucose đang thâm nhập dần dần vào máu của người bệnh. Loại đái tháo đường này thường xảy ra ở trẻ nhỏ hay thiếu niên. Do đó đái tháo đường tuýp 1 còn có tên gọi khác là “Đái tháo đường phụ thuộc insulin” hay “Đái tháo đường tuổi vị thành niên”. Loại đái tháo đường này cũng có khả năng phát hiện ở người trưởng thành và trung niên bởi những đối tượng này đã trải qua thời gian dài sử dụng rượu bia khiến tuyến tụy bị hủy hoại hay do đột biến gây hạch, hay một vài nguyên nhân khác khiến tuyến tụy bị cắt bỏ. Hay cũng có thể do người bệnh bị suy tế bào beta, những nhà máy sản sinh ra insulin. Các bệnh nhân này thường được điều trị bằng phương pháp bổ sung insulin mỗi ngày với tác dụng kéo dài tuổi thọ.
Đái tháo đường tuýp 2
Chứng đái tháo đường này thường tiến triển dần dần và kéo dài, nó càng phát triển nhanh chóng khi tuyến tụy trong cơ thể người bệnh sản sinh ra hoạt chất insulin không đủ hay hoạt chất này có đủ nhưng không được các mô cơ quan tiêu dùng vào hoạt động chuyển hóa chất trong cơ thể. Đối tượng có độ tuổi từ 40 trở lên có tần suất cao bị chẩn đoán mắc bệnh này và thường xuất hiện ở nữ giới nhiều hơn nam giới. Chứng đái tháo đường này mang tính di truyền cao. Có nhiều bệnh đi kèm với đái tháo đường tuýp 2 hay còn gọi là biến chứng của đái tháo đường tuýp 2 như: đục thủy tinh thể, đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp,… Những biến chứng này thường khiến sức khỏe bệnh nhân suy giảm nhanh chóng và rút ngắn tuổi thọ của họ nhanh hơn những đối tượng khác.
Đái tháo đường thai kỳ
Đây là một dạng của bệnh đái tháo đường xảy ra ở những bà bầu đang nằm trong giai đoạn cuối của thai kỳ. Mặc dù dạng đái tháo đường này sẽ hết sau khi con của người phụ nữ đó ra đời nhưng những phụ nữ này cũng vẫn phải cẩn trọng về sức khỏe hơn vì họ dễ có nguy cơ mắc đái tháo đường tuýp 2 hơn những phụ nữ khác sau này. Con của phụ nữ mắc đái tháo đường thai kỳ sẽ có khả năng to hơn những em bé khác.
Cơ chế hình thành đái tháo đường
Nói chung, bệnh tiểu đường xảy ra là do lượng hormone insulin được sản xuất từ tuyến tụy có chức năng bị suy giảm hay bị cơ thể kháng lại nên không thể thực thi được nhiệm vụ chính của chúng. Tùy thuộc và các dạng của đái tháo đường mà cơ chế hình thành bệnh cũng khác nhau.
Cơ chế của đái tháo đường tuýp 1
Những tế bào sản xuất hormone insulin trong tuyến tụy có tên là tế bào beta. Khi trong cơ thể bệnh nhân có sự phát triển của các kháng thể GAD65, IAA, IA-2, ICA sẽ chống lại và phá hủy các tế bào beta ở đảo tụy. Lượng tế bào bị phá hủy nhiều hay ít còn phụ thuộc vào sự phát triển của kháng thể trong cơ thể người bệnh khi đó. Do có kháng thể nên số lượng tế bào beta cần thiết sẽ giảm dẫn tới sản sinh ra vô cùng ít hay không tạo ra được insulin cho cơ thể. Và nồng độ glucose trong máu sẽ bị mất cân bằng. Glucose không được chuyển hóa vào tế bào thành năng lượng cho cơ thể. Lâu dần lượng đường sẽ vượt quá ngưỡng.
Cơ chế của đái tháo đường tuýp 2
Với những bệnh nhân mắc chứng tiểu đường tuýp 2, các tế bào beta từ trung khu tụy không bị phá hủy nên chúng vẫn sản sinh ra được hormone insulin cần thiết. Nhưng ở thể này cơ thể lại đề kháng trực tiếp với loại hormone này chứ không dùng lại ở việc gây ức chế trong quá trình hình thành hormone này nữa. Và nguyên do của hiện tượng này là do bệnh nhân mang 1 hay nhiều hơn 1 yếu tố ngoại lai gây bệnh đã nêu ở trên. Trong trường hợp này, địa điểm xảy ra hiện tượng bài trừ insulin rõ rệt nhất là ở các mô cơ.
Các thể đái tháo đường khác
Có thể khi đó cơ thể người bệnh không hình thành cơ chế chống lại insulin nhưng chất này cũng không đủ để giải phóng toàn bộ lượng đường trong máu khiến cho lượng đường sẽ tồn tại và tích tụ trong máu trong thời gian dài gây hại cho cơ thế.
Tóm lại, từ các lý do gây thừa lượng lớn đường trong máu đó, lượng glucose này không được tiêu trừ và quá trình cung cấp năng lượng cho các hoạt động sống hàng ngày. Nên cơ thể sẽ hình thành một cơ chế khác để giải phóng bớt đường ra khỏi cơ thể, đó là qua đường nước tiểu của hệ bài tiết khiến nước tiểu chứa đường gây đái đường. Và vì đường thừa trong máu nên sẽ gây nên sẽ gây ra nhiều bệnh liên quan khác.
Các chứng rối loạn insulin có thể xảy ra với bệnh nhân đái tháo đường tuýp 2 là: rối loạn tiết insulin theo nhịp đính kèm với ngưỡng cao của nồng độ glucose; lượng tế bào beta giảm, ty thể rối loạn chức năng; insulin giảm cung cấp với các hoạt động glucose,…
Xem thêm: Chỉ số đường huyết an toàn là bao nhiêu? Bảng chỉ số của thực phẩm
Dấu hiệu thường thấy ở bệnh nhân đái tháo đường
Dấu hiệu chưa cụ thể
Biểu hiện đái tháo đường ở từng đối tượng và các giai đoạn bệnh khác nhau cũng khác nhau, song họ cũng vẫn có một vài điểm chung tương đối giống nhau và có thể nhận biết sau đây:
- Đi tiểu thường xuyên hơn và hay thấy khát nước hơn: Do lượng đường trong máu tăng cao và cơ thể người bệnh sẽ bài tiết bớt một phần ra ngoài thông qua đường nước tiểu. Điều này khiến khối lượng nước tiểu chính tăng lên, người bệnh khi đó sẽ phải mất công đi tiểu nhiều lần khiến cho cơ thể mất đi lượng lớn nước dự trữ. Hiện tượng mất nước này này làm áp suất thẩm thấu tăng cao, thúc giục khu vực dưới đồi gây ra cảm giác khát nước.
- Thị lực đi xuống: Cơ thể thiếu nước khiến cho việc điều tiết mắt gặp khó khăn, mắt mờ dần, khả năng nhìn kém.
- Miệng khô khốc và da bị ngứa ngáy:
- Đói và mệt: Do đường không được chuyển thành năng lượng nên cơ thể người bệnh sẽ luôn mệt mỏi và muốn nạp thêm năng lượng vào sinh ra tình trạng đói và thèm ăn.
Dấu hiệu chi tiết
Dấu hiệu của bệnh đái tháo đường tuýp 1
Các dấu hiệu có thể được bộc lộ ở trẻ em hay người trẻ tuổi có thể là:
- Sụt cân dù không có kế hoạch giảm cân.
- Buồn nôn kèm ói mửa.
Dấu hiệu của bệnh đái tháo đường tuýp 2
Dạng đái tháo đường này thường khó để người bệnh phát hiện ra bệnh nên giai đoạn này cần đến sự thăm khám và kiểm tra của bác sĩ. Tuy nhiên, dạng này cũng có dấu hiệu riêng như:
- Dễ bị viêm loét da hay vùng da có vết dao cắt lâu lành.
- Nhiễm trùng nấm men.
Dấu hiệu của bệnh đái tháo đường thai kỳ
Trong thời kỳ mang thai, lượng đường trong máu của các sản phụ sẽ cao hơn bình thường và các triệu chứng bộc lộ không rõ ràng. Người bệnh sẽ thường xuyên khát nước hơn và tiểu tiện nhiều hơn.
- Dấu hiệu thông qua chỉ số xét nghiệm.
- Áp lực thẩm thấu có chiều hướng đi lên: Áp lực thẩm thấu tăng là do đường huyết trong máu tăng quá cao khiến máu trong mạch dễ cô đặc, khó lưu thông và chỉ số áp lực thẩm thấu máu đo được ở mức cao. Dấu hiệu này thường được phát hiện ở những người mắc đái tháo đường tuýp 2, cao tuổi và tiền sử có mắc bệnh nguy hiểm nào đó. Hội chứng này thường xảy ra dài kỳ và khó chấm dứt. Dấu hiệu này có thể khiến tính mạng người bệnh rơi vào tình trạng nguy kịch, biểu hiện qua chỉ số đường huyết cao trên mức 600 mg/dL, khô môi, nhu cầu nước cao, nhiệt độ cơ thể trên 38 độ C, cơ thể lừ đừ, trí nhớ kém, thị lực sa sút, dễ bị hoang tưởng, gặp ảo giác, nước tiểu tối màu.
- Đường huyết trong máu tăng cao: Khi người bệnh ăn quá nhiều, trong cơ thể có bệnh, thuốc không uống đủ liều lượng là những nguyên nhân gây ra hiện tượng đường trong máu tăng cao. Khi đường trong máu của người bệnh tăng cao thì họ sẽ: đi tiểu nhiều, háo nước, môi khô nứt nẻ, mắt nhìn không còn rõ, đầu óc choáng váng, buồn nôn ói mửa. Khi thấy cơ thể bộc lộ các dấu hiệu trên, người bệnh cần thay đổi chế độ dinh dưỡng hay đi thăm khám để được chỉ định đơn thuốc mới hoặc cả hai.
- Nồng độ ketones trong nước tiểu tăng: Khi cơ thể bắt đầu thực hiện quá trình chuyển đổi từ mỡ thừa thành năng lượng cho các hoạt động sống, do tế bào ko được cung cấp đủ đường cần thiết. Quá trình này tạo thành lượng lớn acid tên là ketones. Khi chất này tăng, cơ thể sẽ: ăn không ngon miệng, cơ thể suy yếu, mệt mỏi nôn mửa, nhiệt độ cơ thể tăng cao, đau dạ dày, hơi thở có mùi thơm trái cây (mùi ceton), Khi xét nghiệm sẽ cho ra kết quả là hàm lượng ketones niệu cao. Nếu người bệnh rơi vào giai đoạn này thì cần đưa người bệnh vào nhập viện để theo dõi và chữa trị ngay lập tức.
Những biến chứng tăng nặng của đái tháo đường
Biến chứng mãn tính
Biến chứng lên trung ương thần kinh
Bệnh thần kinh có nguồn gốc từ đái tháo đường có thể phát sinh nhiều thể nguy hại như rối loạn tiêu hóa, nhiễm trùng đường tiểu và tiểu tiện mất kiểm soát, khớp Charcot, chân mất cảm giác, hạ đường huyết không có báo hiệu trước, huyết áp thấp,…
Biến chứng lên mắt
Bệnh đái tháo đường là căn bệnh dai dẳng và đeo đuổi người bệnh trọng thời gian dài, tác động xấu đến hệ thống dây thần kinh toàn cơ thể gây ra nhiều bệnh nghiêm trọng cho thần kinh, thận,… và một khu vực không thể không kể đến đó là võng mạc (mô tiêu hao nhiều nhất oxy của cơ thể). Chính nguyên nhân này đã dẫn tới nguy cơ gây ra mù lòa cho những đối tượng trong độ tuổi từ 20- 65. Việc có kế hoạch kiểm soát lượng đường máu và phát hiện sớm là một phương pháp chính trong điều trị và ngăn chặn biến chứng mù lòa của bệnh nhân.
Biến chứng vào tim mạch
Có 2 thể biến chứng chủ yếu mà bệnh đái tháo đường gây ra cho tim mạch là: bệnh mạch vành và tim suy yếu. Bệnh nhân không mắc đái tháo đường cũng có nguy cơ suy tim.
Biến chứng vào thận
Ở bệnh nhân đái tháo đường, do đường huyết trong máu họ cao nên họ sẽ cần tiểu tiện nhiều và lượng đường thừa sẽ được bài tiết ra ngoài cơ thể từ thận sẽ làm tổn thương hệ thống lọc nước của thận. Thông thường, cơ quan thận sẽ cho một lượng vừa đủ protein đi ra ngoài trong nước tiểu và khi xét nghiệm nước tiểu. Nhưng khi có cả đường đi ra ngoài thì sẽ là bất bình thường và trong kết quả xét nghiệm sẽ cho thấy nước tiểu người bệnh có tiểu đạm vi lượng xuất hiện. Nếu người bệnh sớm phát hiện được giai đoạn này của cơ thể thì các bác sĩ sẽ có thể đưa ra đơn thuốc cứu chữa kịp thời giúp thận hồi phục chức năng.
Biến chứng vào da (đặc biệt là da tay, chân)
Theo thống kê, trong các bệnh nhân mắc đái tháo đường thì có đến ¼ trong số họ gặp biến chứng về da chân. Bệnh viêm loét da chân xảy ra ở cả đối tượng mắc đái tháo đường tuýp 1 và tuýp 2. Vùng da ở lòng bàn chân là nơi thường xuyên bộc lộ bệnh này. Khi bệnh nhân mắc bệnh viêm loét này, nguy cơ phải cắt bỏ phần chân tay mang bệnh lên tới 80%. Tuy nhiên nếu được điều trị phù hợp và vào giai đoạn đầu của bệnh, tỉ lệ nêu trên sẽ giảm xuống.
Biến chứng khẩn cấp
Đường huyết dưới mức cân bằng: Tình trạng này diễn ra khi đường nồng độ huyết xuống dưới 3,6 mmol/l. Nguyên nhân của việc này là bệnh nhân dùng thuốc hạ đường huyết quá liều, giảm cân quá mức hay dùng thuốc khi bụng đói, tập luyện quá sức hoặc lạm dụng rượu bia. Biểu hiện như bệnh nhân thấy bụng đói đến cồn cào, mệt mỏi, tay chân bủn rủn, run lập cập; đổ mồ hôi nhiều; chóng mặt, xây xẩm, choáng váng; tim đập nhanh loạn nhịp. Nếu không có phương pháp sơ cứu kịp thời thì rất có thể bệnh nhân sẽ rơi vào hôn mê, nguy hiểm hơn là có thể tử vong.
Hôn mê, bất tỉnh: Khi đường huyết trong cơ thể người bệnh tăng cao, áp lực thẩm thấu cũng tăng lên khiến họ bất tỉnh, hôn mê. Đây là biến chứng nặng nhất của đái tháo đường và khả năng cao sẽ dẫn tới tử vong. Khi người nhà bệnh nhân cần tìm hiểu kỹ cách sơ cứu khẩn cấp để phòng trường hợp nguy hại sẽ dùng đến gấp. Tuy nhiên sau khi sơ cứu, người bệnh vẫn cần được đưa đến bệnh viện để được hỗ trợ tốt hơn từ y, bác sĩ.
Nhiễm toan ceton: Đây là tình trạng người bệnh bị nhiễm độc do máu có chứa quá nhiều toan do nồng độ acid cao, đây được coi là hậu quả của việc thiếu insulin cho những chuyển đổi hóa học cần thiết và còn lại nhiều thành phần không tiêu hao hết gây nên. Hệ quả không mong muốn của biến chứng này cũng là tử vong.
xem thêm: [LƯU Ý] Thời gian Biến chứng và Giải pháp TRIỆT ĐỂ đái tháo đường
Chẩn đoán bệnh
Xét nghiệm
Xét nghiệm máu phục vụ chẩn đoán và điều trị
Dựa vào những thông số của các chất trong máu của người bệnh vào các thời điểm: lúc đói, sau bữa ăn và sau khi nạp trực tiếp chất này. Sau đây là một số xét nghiệm quan trọng mà chuyên gia cần trong chẩn đoán và điều trị bệnh cho tốt:
- Đo lượng glucose trong máu bệnh nhân lúc đói: Để kết quả đưa ra được khách quan nhất, người bệnh sẽ thực hiện xét nghiệm khi đói này 2 lần. Khi kết quả xét nghiệm sau 2 lần đều trong khoảng từ 110 đến 126 mg/dL thì người bệnh đang trong giai đoạn tiền đái tháo đường và có nguy cơ cao chuyển biến thành đái tháo đường tuýp 2 và các biến chứng tăng nặng.
- Đo lượng đường trong máu sau bữa ăn: Nếu kết quả xét nghiệm 2 lần của bệnh nhân sau khi ăn cao hơn ngưỡng 200 mg/dL kết hợp với sự xuất hiện của các biểu hiện của bệnh như uống nước nhiều, đi tiểu nhiều, người mỏi mệt thì khả năng cao là họ đã mắc đái tháo đường.
- Đánh giá những biểu hiện của đối tượng sau khi nạp trực tiếp chất này: Trong một vài trường hợp, bác sĩ sẽ chẩn đoán qua bệnh tình của đối tượng, họ sẽ cho bệnh nhân uống trực tiếp một chút đường glucose, sau đó sẽ quan sát biểu hiện của họ. Bởi lẽ, với những người đang trong giai đoạn tiền đái tháo đường mà chẩn đoán qua xét nghiệm thì rất khó đoán biết được bệnh của họ. Phương pháp này có tên gọi là “test dung nạp glucose bằng đường uống”. Sau khi uống glucose trực tiếp 2 giờ, bệnh nhân sẽ được đưa đi xét nghiệm lần nữa, nếu kết quả đưa ra vẫn cho thấy mức glucose cao hơn 200 mg/dL, bác sĩ sẽ kết luận người bệnh mắc đái tháo đường tuýp 2.
- Định lượng HbA1C: Ngoài các xét nghiệm về máu, HbA1C cũng là một xét nghiệm đưa ra kết quả giúp y bác sĩ chẩn đoán khá chính xác được người bệnh có mắc đái tháo đường hay không. Glucose trong máu có thể gắn kết với hemoglobin (thành phần chứa oxy)của hồng cầu tạo nên một hợp chất phức tạp tên là HbA1C (Hemoglobin glycosylat). Vào thời điểm glucose đã liên kết với hemoglobin, mối liên kết này sẽ ở đó và tồn tại đến hết vòng đời của hồng cầu (khoảng 3 tháng). Do đó, trong trường hợp nồng độ glucose trong máu cao thì mối liên kết được tạo thành giữa glucose và gốc hemoglobin của hồng cầu cũng nhiều lên. Và nồng độ HbA1C trong máu đạt mức càng lớn. Định lượng HbA1C giúp đánh giá, xem xét khả năng cứu chữa căn bệnh này ở giai đoạn sớm của bệnh. Đường trong máu cân bằng ổn định khi chỉ số HbA1C < 6,5%.
Một số xét nghiệm thêm khác có thể được chỉ định
- Khám lâm sàng: bắt mạch ngoại biên, đo cân nặng, huyết áp, kiểm tra nhiệt độ da ở bàn chân, khám thần kinh qua dò cảm giác bằng âm thoa, khám mắt qua kiểm tra chủ yếu vào các bệnh lý võng mạc.
- Xét nghiệm thông thường: creatinin, định lượng protein niệu, mỡ máu, microalbumin niệu (ở người bình thường, chỉ số này là 30 mg/ngày). Đo điện tim để phát hiện sớm những bệnh về tim, soi võng mạc.
- Xét nghiệm không thông thường: Fructosamine cho biết lượng đường trong máu trung bình trong vòng 2 tuần đến nay, mức bình thường tốt là < 285 mmol/l. Peptide C giúp đánh giá chức năng tế bào beta tụy. Và có thể kể đến như thử đường trong nước tiểu.
Kết luận
- Rối loạn đường huyết: Trong trường hợp, đối tượng có mức đường trong máu cho kết quả <70 mg/dL là người có vấn đề về rối loạn đường huyết. Ví dụ như người có mức đường nói trên là 45 mg/dL, họ có thể rơi vào tình trạng hôn mê do hạ đường huyết.
- Giai đoạn tiền đái tháo đường: Đối tượng mắc chứng “rối loạn dung nạp đường khi đói” thì có nồng độ đường huyết khi đói > 110 mg/dL. Mặc dù những người này chưa được xếp vào danh sách bệnh nhân mắc đái tháo đường nhưng những người này đừng thấy đó mà lơ là với sức khỏe, họ cần hết sức cẩn trọng với sức khỏe của bản thân do họ có nguy cơ cao mắc đái tháo đường. Do tỷ lệ đường trong máu không nằm trong vùng an toàn, họ cần thay đổi các thói quen sinh hoạt thường ngày, năng tập thể dục thể thao và giảm lượng đường nạp vào cơ thể. Những người trong nhóm này cũng có nguy cơ cao mắc các bệnh liên quan đến tim mạch, đột quỵ.
- Đái tháo đường: Tỷ lệ đường trong máu khi đói ≥ 126 mg/dL (≥ 7 mmol/l) đo liên tiếp ít nhất 2 lần. Tỷ lệ đường trong máu sau bữa ăn hay tại các thời điểm khác ≥ 200 mg/dL (≥11,1 mmol/l).
Thuốc điều trị
- Chữa trị đái tháo đường tuýp 1: Điều trị đái tháo đường tuýp 1, bác sĩ thường chỉ định bổ sung insulin. Dựa theo công dụng của các loại thuốc, các chuyên gia y tế chia thuốc thành 3 nhóm:
- Nhóm 1:Insulin tác dụng tức thời: Insulin hydroclorid, Nhũ dịch insulin-kẽm.
- Nhóm 2: Insulin tác dụng vừa vừa: Isophane insulin, Lente insulin.
- Nhóm 3: Insulin tác động từ từ: Insulin kẽm tác dụng chậm, Insulin protamin kẽm.
Khi điều trị đái tháo đường tuýp 2 bằng bổ sung insulin, người bệnh cần áp dụng chặt chẽ việc thay đổi chế độ ăn uống, tập luyện và sử dụng các thuốc điều trị tổng hợp mà chưa đạt được hiệu quả tốt.
Tác dụng phụ của insulin: Dị ứng (sau mũi tiêm lần đầu hay nhiều lần tiêm cũng vậy), giảm glucose máu (thường xuất hiện khi bị tiêm quá liều). Tại vị trí tiêm như ngứa, đau, vùng tiêm tê cứng. Vì khi tiêm insulin bổ sung trực tiếp, tại vị trí tiêm sẽ có khả năng cao bị rối loạn chuyển hóa mỡ, tăng sản sinh mỡ dễ gây u mỡ, gây xơ cứng, tắc nghẽn mạch.
- Chữa trị đái tháo đường tuýp 2: Sử dụng các dẫn xuất của Sulfonylurea để điều trị dạng này của đái tháo đường, theo đó thuốc chữa trị cũng tùy vào tác dụng mà được chia thành 2 nhóm:
- Nhóm 1: Phát huy hiệu quả thấp: Acetohexamide, Clorpropamid, Tolbutamid, Tolazamide.
- Nhóm 2: Phát huy hiệu quả cao hơn: Gliclazide, Glipizide, Glibenclamide.
Các biện pháp giúp cải thiện tình trạng bệnh
- Thường xuyên kiểm tra bám sát tình trạng bệnh: Người nhà bệnh nhân nên trang bị cho bệnh nhân máy đo đường huyết cá nhân để có thể tự theo dõi được chỉ số đường huyết của bản thân được thường xuyên, nhất là người cao tuổi. Nếu phát hiện kịp thời mức độ tăng nặng bệnh sớm, người bệnh sẽ có thể được điều trị kịp thời và giảm độ nặng của bệnh.
- Chế độ dinh dưỡng: Các nguyên tắc dinh dưỡng cho người mắc đái tháo đường:
Nạp nhiều chất xơ như rau củ không chứa tinh bột, đậu, trái cây như chuối, đào, đu đủ, lê xoài, táo, quả mọng là những thực phẩm chứa lượng đường thấp.
Sử dụng những loại ngũ cốc tự nhiên.
Không nên sử dụng khoai tây trắng và sản phẩm tinh chế từ ngũ cốc như bánh mỳ trắng và mỳ sợi trắng.
Hạn chế sử dụng đồ ngọt có hàm lượng calo cao như kem tập trung vào một thời điểm. Sử dụng nước ép trái cây khoảng 1 ly/ ngày. Tránh hết mức có thể việc sử dụng đồ uống giàu đường.
Luân phiên thay đổi các thực phẩm có lợi cho sức khỏe như đậu, cá và thịt gà không da.
Sử dụng những loại chất béo không gây hại cho sức khỏe như dầu oliu, bơ, dầu thực vật,… có lợi cho bệnh nhân đái tháo đường. Giảm bớt việc sử dụng chất béo có nguồn gốc từ động vật.
- Kiểm soát cân nặng: Giảm cân là bước quan trọng để cải thiện tình trạng của người bệnh (đặc biệt là đái tháo đường tuýp 2). Béo phì gây tăng đường huyết máu và hiện tượng kháng insulin. Giảm cân sẽ giúp lượng đường nạp vào cơ thể người bệnh giảm xuồng ngăn cản huyết áp cao, sự tắc nghẽn trong mạch và các bệnh về tim mạch khác.
- Chế độ tập luyện, vận động: Người bệnh cần năng tập luyện để tiêu hao lượng mỡ dư thừa và lượng đường máu sau khi nạp thức ăn vào cơ thể. Hơn thế tập thể thao sẽ giúp cơ thể tăng sức đề kháng và khỏe mạnh hơn để chống chọi với nhiều loại bệnh tật, với đái tháo đường nói riêng hay với nhiều bệnh khác.
- Phương pháp thư giãn: Thư giãn giúp giảm stress và lo âu cho người bệnh. Stress là căn nguyên tạo điều kiện để sản sinh nhiều hormone không tốt cho sức khỏe. Do đó giảm stress sẽ giảm nhiều khả năng mắc bệnh cho bệnh nhân và cũng giúp cải thiện tình trạng bệnh.
- Cơ chế ngủ nghỉ phù hợp, đều đặn: Khi cơ thể ngủ không đủ giấc, người bệnh sẽ thiếu năng lượng và cần hấp thu năng lượng từ nguồn khác như thức ăn, đồ uống. Từ đó sẽ gây tăng đường huyết và khiến bệnh nặng hơn. Người bệnh cần thay đổi thói quen xấu này.
- Từ bỏ thói quen xấu như hút thuốc, rượu bia: Các thói quen không tốt gây hại cho sức khỏe cần thay đổi để bảo vệ sức khỏe.
xem thêm: Cách sử dụng cây mật nhân chữa bệnh tiểu đường. Lưu ý khi chữa trị
Trên đây là những kiến thức mà chúng tôi cung cấp cho quý bạn đọc về căn bệnh đái tháo đường. Chúng tôi rất mong rằng những gì chúng tôi cung cấp sẽ giúp các bạn thật nhiều phòng chống hay thay đổi tình trạng bệnh theo chiều hướng tốt.
Trân trọng cảm ơn bạn đọc đã tham khảo bài viết của chúng tôi.